Trong thời phong kiến, tể tướng được coi là chức vụ rất quan trọng, có thể nói là dưới một người nhưng trên cả vạn người. Gia Cát Lượng đi theo phò tá Lưu Bị nhiều năm, vạch ra Long Trung đối sách để tranh thiên hạ, giúp vị quân chủ này gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc trong Tam Quốc. Ông được đánh giá là một trong những chiến lược gia tài ba nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Không chỉ nổi danh trong thiên hạ với tài năng hơn người, Gia Cát Lượng còn một lòng tận trung báo quốc, đúng như câu "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi".
Gia Cát Lượng là kỳ tài hiếm có trong Tam Quốc.
Vào năm 221, sau khi Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Gia Cát Lượng chính thức được phong làm tể tướng.
Đến năm 223, sau thất bại ở Di Lăng, Lưu Bị lâm bệnh nặng và qua đời tại thành Bạch Đế. Cơ nghiệp của vị quân chủ này được truyền lại cho con trai là Lưu Thiện và giao thừa tướng Gia Cát Lượng phò tá. Lúc bấy giờ, Gia Cát Lượng nắm toàn quyền điều hành nhà Thục Hán, vì Lưu Thiện vẫn còn nhỏ tuổi.
Về đối nội, Gia Cát Lượng chủ trương chú trọng khuyến nông, giảm thuế cho dân và phát triển sản xuất. Đặc biệt, sau khi Lưu Bị qua đời, vì hậu chủ còn nhỏ, Gia Cát Lượng còn bắt đầu phải lo cả việc quân sự.
Sau khi dẹp loạn ở vùng Nam Trung thuộc phía tây nam Thục Hán, Gia Cát Lượng đã thực hiện 5 lần Bắc phạt nhưng đều không thành công. Cuối cùng, trong chiến dịch Bắc phạt lần thứ 6, Gia Cát Lượng lâm bệnh và qua đời ở tuổi 54 tại gò Ngũ Trượng.